ẨM THỰC VIỆT NAM


MonAn1.jpg MonAn2.jpg

MonAn3.jpgMonAn4.jpg 

Nghệ thuật của sự cân bằng tinh tế

Nếu chỉ được dùng một từ để nói về ẩm thực việt nam, nhiều người sẽ chọn từ “cân bằng”. về cơ bản, các món ăn việt nam thường có sự cân bằng cả về nguyên liệu lẫn cách thức chế biến: không sử dụng quá nhiều muối hay chất béo, cũng như không lạm dụng các hình thức chiên, xào với nhiều dầu mỡ - vốn được coi là nguồn cơn của rất nhiều căn bệnh.

Sự tươi mới của thực phẩm luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong ẩm thực việt. nhiều bà nội trợ dù bận đến mấy cũng cố gắng đi chợ mỗi ngày. một đầu bếp việt đích thực thường không lạm dụng gia vị để giữ được hương vị ngọt của thịt tươi, hải sản roi rói mùi biển cả. món chính cùng các món ăn kèm luôn có sự nâng đỡ, bổ sung cho nhau rất tốt cả về dinh dưỡng và khẩu vị. Chẳng hạn, nem rán - món ăn được rất nhiều người nước ngoài biết đến và ưa thích - thường được ăn cùng rau sống tươi non và dưa góp cùng nước mắm chua ngọt có tỏi và tiêu, vừa bổ sung vitamin, chất xơ, vừa hỗ trợ tiêu hóa.

 MonAn5.jpg

Mặc không được sử dụng quá nhiều, nhưng các loại gia vị trong bếp việt luôn được gia giảm khéo léo, vừa đủ để món ăn thực sự “lên hương”. như, phở bắc đúng điệu không thể thiếu húng Láng; đậu phụ ắt đi kèm với kinh giới; trứng vịt lộn phải gừng và rau răm. Chẳng thế tục ngữ việt nam câu: “thịt đầy xanh, không hành không ngon” (xanh: một loại nồi).

Một yếu tố nữa tính “toàn quốc” của ẩm thực việt, không thể không nhắc đến, nước mắm. trên dải đất hình chữ S này, thứ căn bếp nào cũng chính nước mắm. nhiều nơi làm được mắm ngon, nhưng nổi tiếng nhất lẽ nước mắm phú Quốc (Kiên Giang). những người dân hòn đảo lớn nhất của việt nam này gần 200 năm kinh nghiệm làm nước mắm. nhiều loại thể cho nước mắm ngon, nhưng nước mắm phú Quốc chỉ sử dụng cơm. được muối ngay khi vừa đánh bắt lên từ biển nên nước mắm có độ đạm rất cao. độ đạm cao của loại nước mắm này khiến được coi “thần dược” giữ ấm thể cho những người thợ lặn khi không đồ lặn chuyên dùng. trước khi ngâm mình xuống làn nước lạnh, họ thường uống một bát nước mắm cốt. Còn vị thơm ngon ư? Chỉ một chén nước mắm phú Quốc dầm ớt, nhiều người thể “đánh bay” cả nồi cơm gạo mới dẻo thơm.

nhiều nước châu Á, đôi đũa “công cụ” không thể thiếu khi dùng bữa. nhưng đũa việt truyền thống vẫn nét riêng. đũa thường làm bằng nguyên liệu tự nhiên như tre, gỗ, nhất là gỗ dừa già; dài hơn không trơn láng bằng đũa inox của hàn Quốc, không thon nhọn và khía đầu hay sơn phết với hoa văn cầu kỳ như đũa nhật bản mộc mạc, hồn hậu như những người dân quê áo vải.

Bên cạnh những đặc điểm chung ấy, ẩm thực mỗi vùng miền trên đất nước trải dài hơn 1.600 km với nhiều hình thái khí hậu khác nhau cũng những nét riêng độc đáo. miền bắc, nơi 4 mùa sự phân định khá ràng, khẩu vị “ôn hòa”: không quá mặn, quá ngọt hay quá cay. mùa nào thức nấy, sản vật tươi mới thường hiện diện trên mâm cơm người bắc, từ các loại thịt, đến các loại rau xanh; khiến người ta đôi khi nhớ nhung quay quắt một món ăn khi mùa chưa tới. trong khi đó người miền trung ưa cay, mặn. từ miền trung vào đến miền nam mọi món ăn đều được gia giảm một chút đường ngọt ngào…

Chính sự quyến đa dạng ấy ẩm thực một trong những nỗi nhớ khôn nguôi của những người việt xa xứ một trong những “lực hút” quan trọng khiến những người khách phương xa tìm đến với Việt Nam.

 

NHỮNG MÓN ĂN LÀM SAY LÒNG THỰC KHÁCH

PHỞ

MonAn7_Pho.jpg 

Phở là món ăn đặc trưng trong ẩm thực của người việt nam, đặc biệt là người dân miền bắc. phở xuất hiện ở mọi nơi, từ những gánh hàng rong, những nẻo đường làng quê cho đến các ngõ ngách chốn thị thành, từ những quán ăn vỉa hè, quán bình dân và trong cả các nhà hàng sang trọng.

Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về sự ra đời của phở. một số nhà nghiên cứu cho rằng, từ phở xuất thân từ cách phiên âm tiếng pháp của từ “phơ - /feu/” trong cụm từ “pot au feu”, có nghĩa là “thịt hầm” và phở ra đời cùng với quá trình du nhập món thịt bò hầm của pháp vào việt nam những năm đầu thế kỷ XX.

Phở xuất hiện cùng với quá trình đô thị hóa và ban đầu chỉ được bán ở những đô thị lớn. Sau khi đã trở nên quen thuộc ở hà nội và nam định, phở lại theo chân những đầu bếp nam định và hà nội đến nhiều thành phố, vùng miền khác của việt nam. những ảnh hưởng tại mỗi nơi đã khiến cho phở truyền thống phát triển thêm nhiều dạng thức khác như: phở xào, phở sốt vang, phở trộn, phở chua, phở cuốn, phở chiên phồng (đều là phở bò) hay thành phở gà (ở miền bắc), phở hải sản và phở khô (ở miền trung và miền nam).

Để có bát phở ngon quan trọng nhất là nấu nước dùng. nước dùng nói chung được chế từ việc hầm xương bò, trong nước dùng có các loại gia vị như: quế, hồi, gừng, thảo quả, đinh hương, hạt mùi... Công thức chung là như vậy, nhưng mỗi người thợ làm phở lại có một bí quyết pha chế nước dùng riêng và chỉ truyền lại cho các thế hệ sau trong gia đình.

Nói về sự hòa quyện tinh tế giữa các loại nguyên liệu và gia vị trong món phở, đại sứ pháp tại việt nam, ông Jean noel poirier chia sẻ trong một bài phỏng vấn với báo người Lao động: “tôi mê ẩm thực việt về sự sáng tạo và hòa trộn của các nguyên liệu và gia vị trong chế biến thức ăn. ví dụ như, bát phở ngon chủ yếu là do nước dùng, phở bò tái chín tổng hợp được thật nhiều mùi hương và vị”.

Bánh phở, theo truyền thống, được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng rồi cắt thành sợi. bát phở thường được kết hợp với gia vị và rau như: hành lá, hạt tiêu, rau mùi và chanh thái lát hoặc giấm ớt. Sự thành công của người nấu chính là đã làm cho tất cả những nguyên liệu từ nước, bánh phở đến thịt, rau thơm đều hòa quyện với nhau làm một, tạo nên một hương vị hấp dẫn, độc đáo riêng của món phở Việt Nam.

Nhà văn thạch Lam từng viết trong một tác phẩm của mình: phở ngon phải là phở “cổ điển”, đó là phở bò, nước dùng được nấu bằng xương bò, trong và ngọt, bánh phở phải dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành lá đủ cả, “rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”.

Năm 2014, món phở bò của Việt Nam đứng đầu danh sách 40 món ăn ngon của thế giới nên thử một lần trong đời do business insider bình chọn.

 

NEM RÁN

 MonAn8.jpg

Nem rán là cách gọi của người miền bắc, còn người nam gọi là chả giò. nem là đặc sản hoàn toàn của người việt nam. món ăn này xuất phát từ miền bắc và thời trước chỉ trong ngày tết, ngày giỗ, đám cưới của nhà giàu, nhà khá giả mới có nem. Do chỉ phục vụ cho vua chúa, tầng lớp quý tộc, nên người pháp

 MonAn9.jpg

Dịch hay nói đúng hơn là đặt cho nem một cái tên pháp rất sang trọng, quý tộc là “pa-tê hoàng gia” (pâté impériale).

ngày nay, nem rán đã trở thành món ăn quen thuộc trong mọi gia đình việt nam. nó có mặt trong những bữa tiệc sang trọng lẫn các quán cơm bình dân dành cho những thực khách ít tiền.

 MonAn10.jpg

Nguyên liệu để làm nhân nem rán gồm: thịt lợn nạc (ngon nhất là nạc dăm) băm nhỏ, nấm hương, mộc nhĩ, hành khô, giá sống (hay củ đậu), trứng, hạt tiêu, muối, gia vị… trong nem tính sơ sơ hơn cả chục hương vị, chưa kể hương vị nước chấm gồm nước mắm pha đường, chanh, ớt, ăn với rau mùi, rau thơm, xà lách.

tất cả trộn đều rồi dùng bánh đa nem (miền nam gọi là bánh tráng) đã được nhúng nước cho mềm, gói lại thành những cuốn tròn rồi rán chín vàng trong chảo ngập mỡ. Lửa rán không to, không nhỏ quá để giữ độ giòn của vỏ, nhân chín vẫn giữ được màu của rau.

Bánh đa nem phải kén loại bánh tráng mỏng dai để gói thì nem rán sẽ ngon hơn, vỏ giòn không bị vỡ.

nước chấm nem rán phải pha chế thật ngon, khéo điều hòa giữa vị mặn của nước mắm ngon, vị ngọt của chính, đường (nếu pha bằng nước dừa tươi thì không cần đường), vị chua của chanh (hay dấm) rồi hòa chung với nước lọc, thêm vào ít tỏi băm nhỏ, vài lát ớt tươi sao cho vừa đủ độ mặn, ngọt, chua, cay, dậy mùi thơm của tỏi, ớt.

Ăn kèm với nem rán các loại rau sống gồm: lách, mùi, húng láng, kinh giới… dưa góp được làm từ đu đủ xanh, su hào, rốt thái lát mỏng ngâm dấm đường.

ngày nay, người ta đã đa đạng hóa nem rán với đủ loại nhân được làm từ hải sản, cua, ốc, chuối, giò sống, cá, đậu hũ, rau củ… được gói trong các loại bánh tráng khác loại bánh tráng cổ điển như bánh tráng rế, bánh tráng xốp… chấm với tương ớt, sốt chua ngọt. nhưng những loại nem rán này vẫn không thể nào ngon bằng nem rán truyền thống.

Sự kết hợp hài hòa giữa các loại nguyên liệu, gia vị cũng như màu sắc của món nem rán đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của món ăn này. nem rán việt nam cũng đã được kênh truyền hình CNN bình chọn một trong 40 món ăn ngon nhất thế giới.

 

BÚN BÒ HUẾ

MonAn11.jpg 

Ẩm thực Huế có một chiều sâu riêng, mang đậm bản sắc của một vùng đất từng là đô thị, thanh lịch, nhẹ nhàng và tùng tiệm. người Huế thưởng thức ẩm thực theo ba tiêu chí là đẹp, ngon, rẻ. một món ăn không đẹp, không phải là một món ăn. thực khách ưa chuộng bún Huế bởi cái tính “kiểu Huế” của nó. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, là sự thanh tao, cầu kỳ, tỉ mỉ từ hương đến sắc khiến cho người thưởng thức không chỉ cảm nhận được cái ngon của món ăn mà còn cảm nhận được cái hồn của người chế biến.

 MonAn12.jpg

Món ăn cũng phần nào thể hiện tâm tính của người Huế, đặc biệt là người phụ nữ Huế: nhẹ nhàng, kín đáo, cần cù, tỉ mỉ và đặc biệt là rất chu toàn.

Gọi là bún bò Huế vì cái gốc của món ăn này ở tại Huế. bát bún bò Huế trông thì có vẻ đạm bạc nhưng lại rất thanh lịch và đem lại cho thực khách một cảm nhận trọn vẹn của nghệ thuật ẩm thực.

MonAn13.jpg

Bún bò Huế, nguyên gốc tại Huế thì phải nấu với bún vân Cù, được sản xuất tại làng vân Cù, thuộc xã hương toàn, thị xã hương trà, cách Huế khoảng 10 km về phía tây bắc. nguyên liệu chính để nấu bún bò Huế là thịt bò và giò heo. thịt bò thì phải chọn loại thịt đùi nạc, có gân. Giò heo thì lại phải là giò sau lấy đoạn từ khuỷu chân xuống đến móng giò. Rồi đem tất cả rửa sạch, cạo lông giò heo, luộc khoảng nửa giờ cho đến khi nước sôi thì bớt lửa, canh lửa riu riu để hầm cho thịt mềm, thường xuyên vớt bọt cho nước trong. tiếp đến đem thả cây sả đập dập vào nồi nước hầm thịt đang sôi. nếu sả tạo nên hương thì mắm ruốc lại tạo nên vị cho tô bún. mắm ruốc phải đánh cho tan loãng rồi gạn bỏ bã. Ruốc nêm phải vừa đúng phân lượng để tạo một mùi thơm phảng phất và vị ngọt đậm đà. nếu thiếu ruốc nêm, nước bún sẽ nhạt nhẽo, kém vị. nhưng thừa ruốc nêm, nước bún sẽ có mùi nặng nề, không thơm. Người Huế nổi tiếng bởi sự cầu kỳ trong “vẻ đẹp” của món ăn. tô bún bò trông vẻ đạm bạc mà cũng chẳng kém phần thanh lịch với nước bún trong, lộ ra những sợi bún trắng nằm

BÁNH MỲ KẸP THỊT VIỆT NAM

 MonAn14.jpg

Sau phở, nem cuốn, món bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam đã trở thành một món ăn nổi danh được yêu thích tại nhiều nước trên thế giới. đến mức, từ bánh mỳ Việt Nam đã trở thành một từ mới trong vốn từ điển của người dân mỹ. Bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam một loại bánh mỳ làm bằng bột mỳ, bánh được bổ dọc, bên trong kẹp pate, thịt, sốt mayonnaise, kèm theo các loại rau củ quả như: hành, dưa chuột, rốt, rau mùi… rưới tương ớt nước tương. điểm cuốn hút đặc biệt của món ăn này đến từ những nguyên liệu được việt hóa rất nhẹ nhàng hợp khẩu vị người ăn. thay vì dùng động vật béo ngậy, bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam sử dụng dầu từ thực vật. thêm vào đó, phần đồ chua man mát, giòn giòn sẽ tạo độ cân bằng hoàn hảo với phần nhân thịt mỡ ngậy. Sự kếp hợp hài hòa giữa các thứ nguyên liệu trong bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam thể hiện rất đặc trưng văn hóa ẩm thực của Việt Nam, đó sự hòa đồng trong đa dạng.

Chiếc bánh mỳ làm nên loại bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam xuất phát từ bánh mỳ baguette do người pháp đem đến Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XiX. trong quá trình cải biên, người Sài Gòn đã chế biến baguette thành bánh mỳ đặc trưng của Sài Gòn với độ dài ngắn hơn, chỉ khoảng 30 - 40 cm, đồng thời biến tấu bằng cách thêm nhân. từ đó, món bánh mỳ kẹp thịt trở nên quen thuộc phổ biến Sài Gòn. nhân bánh ngày nay được sáng tạo chế biến thêm nhiều loại như thịt nướng, xíu mại, phá lẩu, chả cá…

tiện lợi, giá thành phù hợp, món bánh mỳ kẹp thịt được bán khắp các tuyến đường từ nơi phồn hoa đến xóm lao động nghèo, trong các cửa hàng lớn hay trên các xe đẩy đi vào đến tận cùng ngõ ngách của Sài thành. bánh mỳ đã trở thành món ăn sáng quen thuộc với tất cả mọi giới: từ các nhân viên công sở đến sinh viên, học sinh, người lao động...

từ Sài Gòn, món ăn này phổ biến ra khắp Việt Nam tùy từng địa phương bánh mỳ kẹp thịt lại được sáng tạo để phù hợp với khẩu vị của từng vùng được sử dụng như một món ăn nhanh vào các thời điểm khác nhau trong ngày.

Quá trình đi ra thế giới của món bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam được bắt đầu từ khá sớm. Sau năm 1975, bánh mỳ kẹp thịt bắt đầu đi theo cộng đồng người việt du nhập vào mỹ, Úc, Canada trở nên phổ biến tại những quốc gia này. vào tháng 3/2012, chuyên trang du lịch của the Guardian, một tờ báo nổi tiếng của vương quốc anh, đã bình chọn bánh mỳ kẹp thịt Việt Nam vào loại thuộc 10 món ăn đường phố ngon hấp dẫn du khách nhất thế giới.

 

BÁNH CHƯNG, BÁNH DÀY

MonAn15.jpg 

Bánh chưng, bánh dày loại bánh truyền thống của người việt thường được dùng trong các dịp lễ, tết những dịp cúng tế quan trọng. người việt vẫn truyền nhau câu chuyện về sự tích bánh chưng, bánh dày, rằng: sau khi vua hùng phá được giặc Ân, muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu 22 vị quan lang công chúa đến

phán rằng: ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay đem trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.

mọi người tỏa đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ. Duy chỉ công tử thứ 18 Lang Liêu, sớm mồ côi mẹ, không biết xoay sở ra sao. một đêm kia được thần chỉ cho cách làm bánh: “nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình trời đất rồi dùng bọc ngoài, trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ”. Lang Liêu làm theo lời thần dạy được vua cha truyền ngôi.

 MonAn16.jpg

Bánh chưng, bánh dày từ đó được dân chúng dùng để cúng trong những ngày tết với ý nghĩa thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, trời đất. Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất. bánh được gói bọc bên ngoài bằng lá dong bánh tẻ, lật mặt gói vào trong để bánh màu xanh tự nhiên, đẹp mắt, buộc bằng lạt giang. bánh được làm bằng gạo nếp với nhân đỗ xanh, thịt lợn, tiêu, hành… bánh làm xong hình vuông cạnh từ 15-17 cm, dày khoảng 4-6 cm. bánh được nấu chín trong thời gian từ 10-12 giờ để đạt hương vị thơm, bùi, béo quyện vào nhau của các loại nguyên liệu.

bánh chưng đã trở thành một phát ngôn cho triết ẩm thực văn hóa của người việt: cách chuẩn bị công phu, chu đáo, kỳ công... thể hiện lòng hiếu đạo của người dân Việt Nam đối với ông bà, tổ tiên. bánh chưng đã gói ghém cả nền văn minh lúa gạo vào trong lòng văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt.

Việc gói bánh chưng thưởng thức bánh ngày tết cũng thể hiện nét đẹp văn hóa của người việt. Sau khi bánh được dâng cúng tổ tiên, mọi người trong gia đình cùng thưởng thức hương vị của bánh. Cắt bánh cũng cả một nghệ thuật: bánh được chia thành các phần đều nhau cả phần nhân lẫn phần vỏ bánh. thông thường người ta dùng chính dây lạt buộc bánh để cắt bánh thành 8 miếng hình tam giác với các đường cắt ngang chéo trên bánh. bánh chưng từ đó mang dáng dấp của văn hóa người việt: đoàn kết, chan hòa, chu đáo, công bằng tôn trọng lễ nghi.

Đi cùng với bánh chưng bánh dày, cũng được làm từ gạo nếp cũng được xếp thành từng cặp tượng trưng cho hai mặt âm - dương. bánh dày hình tròn, màu trắng mịn, thơm nhẹ mùi nếp mới, hương vị dẻo ngọt, tinh khiết. bánh được làm từ gạo nếp đồ chín giã trong cối đến khi dẻo mịn rồi được nặn thành hình tròn dẹt, đường kính khoảng 5-7 cm, dày khoảng 1 cm. bánh dùng để cúng thường bánh trắng không nhân, khi ăn thường được ăn kèm với giò lụa hoặc muối vừng.

Quá trình chế biến bánh dày cũng thể hiện tinh thần cố kết của người việt. để làm được chiếc bánh dày, thông thường đòi hỏi phải công sức lao động của tập thể: cần ít nhất 3 đến 4 người để cùng nhào, lật, giã bột bánh, nặn bánh. để chiếc bánh dày dẻo ngon đẹp mắt cần cả sức mạnh của người đàn ông sự khéo léo của người phụ nữ.

Với nguyên liệu mộc mạc nhưng cũng quý giá nhất đối với người làm ruộng đó gạo nếp, chiếc bánh dày thực sự kết tinh của những giá trị tinh túy, giản dị công phu của sức lao động tình cảm trân trọng sản phẩm từ lao động của người việt. Bình dị nhưng chứa đựng trong đó tình cảm, đạo , nét đẹp văn hóa của tâm hồn người việt, tất cả đã làm nên giá trị của bánh chưng, bánh dày.

Bánh chưng Việt Nam được xếp vào danh sách 10 món ăn truyền thống đặc trưng trên thế giới, do tạp chí uy tín national Geographic bình chọn hồi tháng 5/2014.

 

TRÀ SEN TÂY HỒ

 MonAn17.jpg

Trà sen tây hồ được biết đến như một sự thăng hoa trong nghệ thuật pha trà thưởng trà của người Hà Nội. Được tạo nên từ những nguyên liệu được lựa chọn kỹ càng trải qua quy trình chế biến cầu kỳ, thế nhiều người trà sen tây hồ như báu vật của đất hà thành. từ hàng trăm năm trước, thứ trà sen hảo hạng này chỉ dành để dâng tiến vua quan và những bậc quyền quý.

Quá trình ướp trà sen tây hồ cùng cầu kỳ tỉ mỉ. hoa sen dùng ướp trà phải thứ sen hương, mỗi bông hơn trăm cánh vùng Quảng bá, tây hồ. bùn các đầm sen nơi đây rất màu mỡ nên hoa sen nơi này đẹp đặc biệt hơn những nơi khác. Sen tây hồ nhiều cánh xếp vào nhau, nhụy vàng thẫm, cánh hồng phớt sắc, hương thơm ngào ngạt. Mùa sen tây hồ kéo dài từ trung tuần tháng 5 đến đầu tháng 9. Khi sen độ chín đậm hương nhất, đó cũng lúc hàng nghìn bông sen được thu hái về để chuẩn bị cho công đoạn ướp trà. hoa sen phải được hái khi mặt trời chưa lên, khi ấy hoa sen vẫn còn đượm hương. những bông sen sau khi chọn sẽ được tách nhị hoa, hay còn gọi gạo sen - đây là túi hương của bông sen để chuẩn bị cho việc ướp trà. mỗi lạng gạo sen phải cần tới 80-100 bông hoa để ướp 1 kg trà mỗi lần cần tới 2 lạng gạo sen, thế phải cần đến khoảng 1.400 bông sen để được 1 kg trà sen.

Đ ướp trà, người ta rải một lớp trà mỏng rồi rải một lớp gạo sen mỏng lên trên, lại một lớp trà, tiếp một lớp gạo sen, cho tới khi hết trà gạo sen, sau cùng phủ giấy can đem trong một căn phòng ấm kín. thùng gỗ ướp trà tốt nhất sử dụng quả ăn hỏi. Cứ 4-6 tiếng phải mở nắp thùng gỗ đảo qua trà một lần cho nhiệt độ giảm đi để gạo sen không bị ủng. tùy theo đ ẩm của trà gạo sen, trà sẽ được ướp trong khoảng thời gian từ 36 48 giờ rồi mang ra sàng bỏ gạo sen đi sấy. t phải được sấy sao cho hơi nước bay đi nhưng hương sen còn đọng lại. Chu trình ướp - sấy này được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi trà thơm theo yêu cầu thì dừng lại. đó cũng c trà đã thực sự ngấm hết mùi hương của sen đ sẵn sàng mang đến cho người thưởng thức. Cầu kỳ vậy, nên riêng với trà sen tây hồ, những người kinh nghiệm ướp trà ngon đều được tôn bậc nghệ nhân.

Ướp trà sen tây hồ đã cầu kỳ, thưởng trà sen tây hồ cũng cầu kỳ không kém. một nơi tưởng để thưởng trà sen tây hồ cổ truyền dưới mái hiên nhà trông ra phía hồ sen. người thưởng trà ngồi xếp bằng trên sập gỗ. trong c thưởng trà, người thưởng trà n được chiêm ngưỡng những bông sen mới nở tận hưởng không gian thanh khiết, trong lành. t sen khi pha nước màu vàng như mật ong mùi thơm thoang thoảng rất dễ chịu. đ thưởng thức hết vẻ đẹp của trà sen, người thưởng thức cần một tâm hồn tinh tế, chân thành tĩnh tâm. người thưởng trà thể ngắm cảnh, làm thơ, hàn huyên tâm sự hay trầm ngâm tự tại, do đó, không gian uống trà thường rất tĩnh lặng. Lối thưởng trà giản d thanh tao này cũng chính một nét đc trưng của nghệ thuật trà đạo Việt Nam.

Đối với người Việt Nam, trà sen được xem như một sản vật đại diện cho văn hóa tính cách của người việt. ngày nay, trà sen đã được nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu sản xuất cho ra đời nhiều sản phẩm đa dạng tiện lợi như dạng trà túi nhúng để mang trà sen đến được với nhiều người tiêu dùng hơn.

Khi ướp trà, chỉ tách lấy nhụy sen (gạo sen) để ướp. Cứ một lớp trà mỏng, rồi một lớp gạo sen xếp đầy sành nhỏ, sau đó đem trong một căn phòng kín ấm trong 3 ngày, rồi lại sàng gạo sen đi, sấy khô trà lại tiếp tục với gạo sen mới. Cứ làm như vậy khoảng 7 lần thì mới được một mẻ trà sen. mỗi lần ướp không quá 3 kg trà.

mỗi đ thu về, người Hà Nội lại có một thú vui tao nhã thưởng thức trà sen với cốm hoặc bánh cốm làng vòng - loại bánh rất đc biệt chỉ riêng Hà Nội mới có. Cốm làng vòng (thuộc địa phận quận Cầu Giấy bây giờ) nổi tiếng dẻo thơm ngon nhất xứ kinh kỳ. được làm từ lúa nếp non, cốm chính kết tinh của sự đảm đang, cần cù sáng tạo của người nông dân trồng lúa. Đ có được những chiếc bánh cốm xanh rền, thơm ngon, ngọt bùi, phải trải qua một quy trình chế biến rất cầu kỳ. Cốm dùng làm bánh phải dạng cốm già, nghĩa lúa cắt thời điểm hạt đã chắc xanh, cốm non khi vào đường sẽ tan hết, không dùng làm vỏ bánh được. Cốm làm xong sấy khô, đựng vào chum, vại, hoặc đóng gói thật kín cho khỏi ẩm. Khi làm bánh, cứ 1 kg cốm cho khoảng 1,3 lít nước, trộn cho hạt cốm mềm, rồi pha tỷ lệ một đường một cốm, đặt lên bếp đun đảo đều tay, nếu non thì bánh nhão, quá lửa thì bánh mùi khét. đến khi gần được thì thêm ít giọt nước cất từ hoa bưởi, nhờ tinh hoa bưởi bánh cốm hương vị đặc biệt.

nh cốm ngon thường có màu xanh ngả vàng tự nhiên của cốm non, bánh mỏng, dẹt, có thể nhìn c lớp đậu xanh vàng óng trong nhân bánh. Bởi hương vị rất hợp nhau, vậy nên hai nét tinh túy trong văn hóa ẩm thực của Hà Nội trà sen tây hồ, bánh cốm làng vòng còn được chọn đ đi cùng với nhau trong mâm lễ cưới hỏi của người Hà Nội.

  ​​  ​​​​​​​​​​​​​   ​​​